Giáo Hội
Công Giáo tại Cộng Hòa Liên Bang Đức có khoảng 26,7 triệu
tín hữu. Với con số này người Kitô hữu chiếm 32,3% trong
số 82 triệu dân Đức. Số tín hữu thuộc Tin Lành tương đương
với số dân công giáo. 3,1 triệu dân là người Hồi giáo (khoảng
3,5%). Số người thuộc các cộng đồng Do thái giáo chiếm khoảng
88.000. Qua sự kiện thống nhất nước Đức tỷ lệ những người
không thuộc các giáo hội hay cộng đồng tôn giáo tăng lên.
Người Công Giáo Việt Nam hiện diện tại Ðức khoảng 17.000
từ sau biến cố 30.4.1975.
Về cơ cấu giáo hội, trong nước Đức có 27
giáo phận nằm trong 7 Tổng giáo phận:
- Barmberg,
- Berlin,
- Freiburg,
- Hamburg,
- Köln,
- München-Freising và
- Paderborn.
Vị Tổng giám mục là người điều hành một
tổng giáo phận, vì vậy vị tổng giám mục cũng được gọi là
Metropolit. Tổng giám mục của một tổng giáo phận có những
nhiệm vụ giám sát trên các giáo phận nằm trong phạm vi trách
nhiệm của vị này.
Dựa theo con số giáo dân, Tổng giáo phận
Köln là giáo phận lớn nhất nước Đức với gần 2,3 triệu người
công giáo, địa phận nhỏ nhất là Görlitz với gần 50.000 giáo
dân.
Những vùng Diaspora, nơi mà người công
giáo chỉ là một thiểu số trong tổng số dân cư, nằm ở miền
Bắc và Đông nước Đức. Các địa phận, trong đó người công
giáo chiếm phần lớn tổng số dân cư là Passau với 81% tổng
số dân cư, Regensburg 84,2%, Augsburg 69,8%, Trier 69% và
Würzburg 66,5%. Tính chung lại, những giáo phận có tỷ lệ
người công giáo rất ít so với số dân cư nằm trong các tiểu
bang mới của nước Đức (những tiểu bang được thành lập sau
ngày nước Đức thống nhất): như địa phận Dresden với 4,1%
và Görlitz 5,2%. Ngay như tổng giáo phận Hamburg, một tổng
giáo phận bao gồm hai tiểu bang Hamburg, Schleswig-Holstein
và một phần lãnh thổ thuộc tiểu bang Mecklenburg-Vorpommern,
chỉ có 7% người công giáo, chịu ảnh hưởng rất mạnh của Tin
Lành bởi tình trạng người công giáo sống phân tán rải rác.
Sự Kiện Thống Nhất Nước
Đức
Việc thống nhất nước Đức đã đưa đến nhu
cầu tối khẩn là đặt định lại cơ cấu tổ chức, nhất là cho
các vùng thuộc Đông Đức cũ. Trước đó có hai địa phận đã
bị chia cắt bởi bức tường Berlin, đó là giáo phận Berlin
và giáo phận Dresden-Meißen; những vùng còn lại theo giáo
luật không có tính tự tổ chức điều hành độc lập: Schwerin
thuộc địa phận Osnabrück, Magdeburg thuộc Paderborn, Erfurt-Meiningen
thuộc Fulda và Würzburg (một phần của Meiningen). Görlitz
chiếm phần của địa phận Breslau nằm trong Đông Đức cũ. Trong
thời gian đó, Giáo hội không được chính quyền cho phép hướng
dẫn điều hành những địa phận này vượt qua các ranh giới
hành chánh thuộc chính quyền, nên tất cả những vùng giám
quản không có tính tự lập đứng dưới quyền của các Giám mục
giám quản tông toà và các vị này trực tiếp đứng dưới quyền
của Đức Thánh Cha. Mặc dù tình trạng trên tạo ra những khó
khăn trong mục vụ, trong cách tổ chức cơ cấu và có liên
quan đến giáo luật, Hội Ðồng Giám Mục Đức và Hội Ðồng Giám
Mục Berlin, cơ cấu quản lý hành chánh cho những vùng Đông
Đức cũ đã chống lại những nỗ lực về phía chính quyền, nhất
là chính quyền của Đông Berlin nhằm thay đổi ranh giới cũ
của các địa hạt, mà sự thay đổi họ cho là kết quả tất yếu
qua việc chia cắt nước Đức.
Việc thống nhất nước Đức đưa đến hệ quả:
định mới lại cơ cấu các giáo phận. Trong thời gian dưới
sự kiềm chế của chế độ cộng sản Đông Đức tính chung lại
có khoảng 1 triệu người công giáo sống trong các vùng thuộc
giám quản tông toà và giáo hội ở đây có chiều hướng mục
vụ riêng biệt - điểm đáng lưu ý là con số giáo dân công
giáo cũng như tin lành ngày càng giảm. Vì vậy Toà Thánh
Vatikan và Hội Ðồng Giám Mục Đức, lúc này là Hội Ðồng Giám
Mục cho toàn nước Đức, đặc biệt quan tâm đến sự thiếp lập
các giáo phận với việc tách một phần nhỏ các địa hạt thuộc
các giáo phận mẹ trước đó. Trong tiến trình tổ chức cơ cấu
mới này Berlin trở thành tổng địa phận Berlin. Ở miền Bắc
tổng địa phận Hamburg được thiết lập, đây là giáo phận có
diện tích rộng nhất nước Đức, giáo phận này được hình thành
bởi phần đất phía đông của địa phận Osnabrück. Quá trình
thiếp lập cơ cấu quản lý mới có liên quan đến luật lệ của
giáo hội kéo dài hàng năm, bởi vì giáo hội trong việc này
phải đàm phán và ký khế ước với các chính phủ tiểu bang
nơi các địa phận mới được thiết lập. Việc này được hoàn
tất vào đầu năm 1995. Qua đó Hội Ðồng Giám Mục Đức hiện
nay bao gồm 27 địa phận.
Lần đầu tiên trong lịch sử giáo hội công
giáo Đức các giám mục, những người lo mục vụ và các giáo
xứ phải nhìn nhận một thực tế: trong một xã hội tự do dân
chủ có nơi một phần lớn dân số không được hoặc không muốn
rửa tội. Sự kiện này đặt lại câu hỏi về chỗ đứng của giáo
hội trong xã hội Đức. Bên cạnh đó hoàn cảnh tinh thần chung
trong các tiểu bang mới được thành lập gây khó khăn cho
việc gầy dựng những cấu trúc căn bản của giáo hội cũng như
việc phát triển những hoạt động phục vụ cho những nhu cầu
mang tính chất xã hội văn hoá của con người, mà những cơ
cấu và hoạt động này chỉ được thừa nhận phần nào dưới chế
độ cộng sản Đông Đức. Tuy vậy giáo hội ở đây mong muốn dần
dần nâng cấp những hoạt động và các cơ sở như bệnh viện,
nhà cho người khuyết tật, nhà trẻ và các viện dưỡng lão,
trường học và các trung tâm dạy nghề, giống như trạng thái
hiện có trong các tiểu bang thuộc Tây Đức cũ. Giáo hội địa
phương đã đầu tư rất nhiều cho mục đích này. Các địa phận
vì thế - trong tinh thần liên đới - đã đóng góp với một
mức lượng lớn về nhân sự và tài chính.
Cho việc tạo nhịp cầu nối kết giữa người
công giáo Đông và Tây Đức đại hội công giáo Đức lần đầu
tiên sau khi thống nhất, được tổ chức vào năm 1994 tại Dresden,
đã đặt những định hướng quan trọng. Việc học hỏi và quen
biết lẫn nhau sau hàng chục năm phân biệt giữa „Người Đông“
(Ossi) và „Người Tây“ (Wessi) bởi luật lệ của chính quyền
đưa đến những nhận thức bất ngờ và giảm đi những thành kiến.
„Trong những năm nước Đức bị chia cắt giáo hội công giáo
đã bám vững vào sự hiệp nhất“ đó là lời tuyên bố chung của
Hội Ðồng Giám Mục Đức và Hội Ðồng Giám Mục Berlin, hội đồng
lúc đó còn tồn tại, vào tháng 5 năm 1990. „Điều đã được
củng cố dưới những điều kiện khó khăn, điều đó càng phải
được tiếp tục truyền tiếp“.
Thiếu Hàng Ngũ Linh Mục
Tình liên đới và việc xem nhau là người
đồng cộng tác củng cố sự hiệp nhất. Sự hiệp nhất cũng được
nâng đỡ qua việc giải quyết những khó khăn chung. Một trong
những khó khăn nổi bật biểu hiện cho tất cả các địa phận
trong nước Đức là con số các linh mục ngày càng giảm thiểu
đi. Trong những năm đầu của thập kỷ 70 người ta đã tranh
luận về tình trạng thiếu linh mục, mà lúc đó còn có trên
25.000 linh mục triều và dòng. Trong khoảng 10 năm con số
này giảm xuống còn 20.000. Từ đó con số này càng giảm đi:
trong những năm cuối của thập niên 80 xuống còn 19.500.
Thống kê mới nhất vào năm 2001 cho biết có khoảng 16.988
linh mục triều và dòng: tuy nhiên ở đây cũng tính ¼ các
linh mục về hưu vào con số này. Chưa tới 11.000 linh mục
phục vụ trong 13.138 giáo xứ và điểm mục vụ. Con số này
cho thấy có nhiều và ngày càng nhiều các giáo xứ phải „chia
sẻ“ linh mục với nhau, điều này dẫn đến những gánh nặng
lớn cho từng cá nhân linh mục. Tuổi trung bình của các linh
mục lên cao và những con số quá nhỏ của những người chịu
chức linh mục làm cho người ta không chờ đợi đến một tiến
trình khả quan nào cho tương lai của ơn gọi linh mục.
Trong khi đó con số các phó tế vĩnh viễn
lại tăng: từ 450 (năm 1978) lên hơn 1313 (1989). Thiên chức
phó tế vĩnh viễn được Công Đồng Vatikan II tái thiết lập,
khác với chức phó tế trước khi được truyền chức linh mục.
Theo công đồng Vatikan II thì những người đàn ông đã lập
gia đình cũng có thể đảm nhận chức vụ này. Điều này được
đón nhận một cách nồng nhiệt. Thường thì các phó tế vĩnh
viễn được truyền chức sau quá trình dài hoạt động nghiệp
vụ thông thường. Có nhiều người là phó tế „bán chính thức“
(xét theo công việc mục vụ của họ, chứ không xét theo bí
tích). Có nghĩa là: sau khi được truyền chức phó tế, họ
không hoàn toàn dành thời gian hoạt động cho một công việc
mục vụ Đức giám mục giao cho, nhưng tiếp tục hành nghề của
mình và bên cạnh đó làm một công việc do Đức giám mục địa
phương ủy nhiệm. Nhìn từ phía các cộng đồng giáo xứ, người
ta không thể bỏ qua các phó tế vĩnh viễn. Những vị phó tế
vĩnh viễn này hoạt động dưới quyền của các linh mục quản
xứ và cộng tác với vị này trong mục vụ. Các phó tế vĩnh
viễn cộng tác trong các nghi thức phụng vụ, giảng Lời Chúa
trong thánh lễ, dạy giáo lý cho trẻ em, thanh niên và người
trưởng thành, cũng như dạy giáo lý trong các trường học.
Họ cũng được cử hành bí tích Rửa Tội, là đại diện giáo hội
khi trong khi tham dự và chứng nhận bí tích hôn phối và
cử hành nghi thức an táng. Hơn hết những phó tế vĩnh viễn
phải đặc biệt quan tâm lo cho những người yếu thế trong
xã hội, những bệnh nhân, người khuyết tật và người già cả,
những người này hoàn toàn hay phần nào đó vì hoàn cảnh bị
giới hạn tham dự vào những hoạt động của giáo xứ.
Cán Sự Viên Trong Những Hoạt Ðộng Mục Vụ
Việc giảm thiểu các linh mục dẫn đến một
tiến trình tích cực có tính chất quyết định làm thay đổi
đời sống giáo hội trong các cộng đoàn giáo xứ. Việc hoạt
động mang tính cách chính thức của các giáo dân trong nhiều
phạm vi mục vụ tăng lên. Thống kê vào năm 1978 cho biết
có khoảng 284 cán sự viên giáo dân nam nữ, tốt nghiệp trương
trình thần học ở đại học, cũng như 2.032 cán sự viên, tốt
nghiệp trương trình thần học ngắn hơn tương đương với cao
đẳng. Năm 1989 con số này nằm ở mức 1.339 (đại học) và 3.479
(cao đẳng). Năm 2001 có khoảng 2.816 và 4.291 đang hoạt
động trong các công tác mục vụ. Từ khoảng 60 năm nay giáo
hội Đức có những cộng tác viên mục vụ, và những người này
hoàn toàn là phụ nữ. Trước đây đối với nhiều người các phụ
nữ hoạt động trong các giáo xứ dưới hình thức là cộng tác
viên của linh mục là hình ảnh quen thuộc, nhất là ở những
nơi người công giáo sống phân tán (Diaspora). Từ đó nghiệp
vụ cán sự viên mục vụ được nối tiếp. Ngày nay càng có nhiều
người nam hoạt động trong lãnh vực nghiệp vụ này. Phạm vi
hoạt động của họ giới hạn trong các giáo xứ và chủ yếu tập
trung vào việc dạy giáo lý xưng tội rước lễ cho các trẻ
em và giáo lý thêm sức cho thiếu niên, dạy giáo lý trong
các trường học và hoạt động với các nhóm thanh thiếu niên
cũng như phụ nữ. Cán sự viên mục vụ có tốt nghiệp thần học
ở trường đại học là một nghiệp vụ mới mẻ trong giáo hội.
Cho dù con số những người giáo dân tốt
nghiệp thần học có tăng, vì nhiều lý do, không phải chỉ
vì luật độc thân cho linh mục mà họ đi theo chiều hướng
là giáo dân hoạt động với tư cách cán sự mục vụ, các giám
mục Đức không cho đó là một phương cách bù đắp cho việc
thiếu linh mục, mà cho đó là sự bổ sung cho công việc của
các linh mục. Qua đó các giám mục Đức nhìn nhận những hoạt
động của các cán sự mục vụ là cơ hội mới cho giáo hội và
là thành quả mới cho công việc mục vụ.
Việc cộng tác chung giữa các linh mục và
giáo dân trong nhiều lãnh vực, sau những bỡ ngỡ bước đầu
về vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân, đã đưa đến một
ý thức cho công việc chung và ý thức làm việc chung. Các
linh mục nhận biết rằng họ không thể nào hoàn thành trọn
vẹn được công việc mục vụ nếu không có sự cộng tác ủng hộ
của giáo dân. Các giáo dân hoạt động trong nhiều lãnh vực
mục vụ khác nhau nhận ra rằng, họ cần có sự nâng đỡ tinh
thần của linh mục trong những công tác của họ.
|